Vài ghi chép cho front-end developer
Bài viết được sự cho phép của tác giả Huy Trần
Thật ra đây là phần nội dung mà mình đã chia sẻ trong chương trình #30daysofsharing diễn ra khoảng đầu năm 2021, do bạn @Bác Làm Vườn trên WeBuild đề xuất. Mình chỉ copy ra đây những bài do mình viết.
Các bạn có thể vào repo tại đây để đọc toàn bộ các bài viết của các thành viên khác.
Accessibility (A11y)
Một trang web đạt chuẩn accessibility khi nó được thiết kế và phát triển để giúp cho mọi người đều có thể sử dụng được, kể cả những người già, những người khuyết tật hay đơn giản là những người không sử dụng các thiết bị input thông thường trên máy tính.
Sử dụng được ở đây có nghĩa là:
- Có thể tiếp nhận được nội dung trên trang web (ví dụ người khiếm thị vẫn có thể nghe được nội dung văn bản, hình ảnh, hoặc người khiếm thính vẫn có thể đọc được các nội dung âm thanh,…)
- Có thể navigate được, và tương tác được với nội dung trên trang web (người không dùng chuột thì vẫn có thể navigate bằng bàn phím, người khiếm thị vẫn có thể navigate hoặc nhập liệu được bằng giọng nói… ví dụ thế)
Tất nhiên accessibility vẫn có thể đem lại rất nhiều lợi ích cho những người không mang khuyết tật, ví dụ keyboard navigation, hoặc người nào thị lực kém, vẫn chỉnh được chữ to lên, high constrast hơn, ai xài kết nối internet kém vẫn có thể sử dụng được trang web mà không gặp trở ngại.
Nếu chỉ có ý định support accessibility một cách cơ bản, bạn có thể focus vào các yếu tố sau:
- Đừng thay đổi thuộc tính
tabIndex
của một element nếu không cần thiết - Đừng disable cái focus outline của một element (repeat after me:
outline: none
trong CSS là một tội ác) - Nếu phải disable focus outline vì nó quá xấu, thì phải design một cái outline mới đẹp hơn và rõ ràng hơn để bỏ vào
- Sử dụng semantics HTML tags như
<article>
,<main>
,<nav>
,… nếu có thể - Với các input element, nên đặt thuộc tính
role
một cách rõ ràng và chính xác - Sử dụng element đúng với mục đích của nó, ví dụ, không dùng thẻ
<div>
để làm nút bấm (button) - Sử dụng các thuộc tính
ariaảia-*
nhưaria-label
,aria-labelledby
,aria-descibedby
,… để chú thích và chỉ ra mối quan hệ cho các nội dung/element trên trang web
Hiện tại, các hệ điều hành và các trình duyệt đữa đưa ra rất nhiều tiện ích để hỗ trợ accessibility, như là screen readers (đọc nội dung của trang web dựa vào các thuộc tính aria-*
, trên MacOS có VoiceOver, trên Windows phải sử dụng các ứng dụng của bên thứ 3 như JAWS), hay các giải pháp điều khiển máy tính thông qua mắt nhìn (built-in của MacOS),… tất cả những giải pháp này đều phụ thuộc rất nhiều vào tiêu chuẩn WCAG.
Có thể tham khảo thêm các tài liệu sau đây về accessibility:
- Một vài bước kiểm tra accessibility đơn giản (https://www.w3.org/WAI/test-evaluate/preliminary/)
- Tiêu chuẩn Web Content Accessibility Guidelines (WCAG) https://www.w3.org/WAI/WCAG21/quickref/
Bên cạnh đối tượng user là những người bình thường, lành lặn, đầy đủ cả tay chân tai mắt mũi mà chúng ta vẫn tưởng tượng ra hằng ngày, ngoài kia vẫn còn rất nhiều người kém may mắn hơn, và họ vẫn có điều kiện để tiêp xúc với công nghệ mỗi ngày, và những user như họ cần được hỗ trợ nhiều hơn từ phía những người trực tiếp làm ra sản phẩm, là frontend developer chúng ta, cho nên, hãy bỏ chút thời gian và công sức để giúp đỡ những user đặc biệt này, mình chắc chắn là bạn sẽ thấy công việc của mình có nhiều ý nghĩa hơn.
Đặc biệt, đối với những frontend developer đang làm việc tại Mỹ, thì luật pháp quy định mọi trang web đều phải accessible, nên không support hoặc không quan tâm đến a11y có thể coi là phạm pháp.
Nhiều công ty tuyển dụng Frontend Developer đãi ngộ tốt, ứng tuyển ngay!
CSS Variable
Let’s talk about CSS Variables.
CSS Variables, hay còn gọi là CSS Custom Properties, là các thuộc tính CSS có dạng --*
, có chức năng lưu giữ các giá trị trong CSS.
Các giá trị này khi cần, có thể được đọc ra bằng hàm var()
, giá trị trả về từ hàm var()
này có thể được dùng để gán cho các CSS Properties khác.
// define
--foo: #ff0000;
// read and reassign
color: var(--foo);
--new-foo: var(--foo);
CSS Variables là case sensitive, nên --foo-bar
sẽ khác với --Foo-bar
và khác luôn với --foo-Bar
.
Tính kế thừa của CSS variables thì giống với mọi properties khác nên không có gì để nói đến. Có thể hiểu nôm na là, một CSS variable được define/hay thay đổi trong một scope, thì mọi scope con của nó đều có thể access đến giá trị của variable đó.
Nếu chúng ta sử dụng hàm var()
để lấy giá trị của một CSS variable chưa được define, thì có thể bỏ thêm một tham số vào để làm fallback value, ví dụ:
var(--something-not-defined, 10) // giá trị sẽ là 10
--something-defined: 50;
var(--something-defined, 10) // giá trị sẽ là 50
Lưu ý, nếu browser không hỗ trợ CSS Variable thì xài fallback value cũng vô dụng.
Một case quan trọng nhất đó là, sẽ thế nào nếu bạn sử dụng sai kiểu dữ liệu cho một variable? Ví dụ một variable có giá trị số, nhưng gán vào cho một property có giá trị màu (như color
, hay background-color
)?
Ví dụ:
:root { --text-color: 16px; }
p { color: blue; }
p { color: var(--text-color); }
Ở đây biến --text-color
mang giá trị số (16px) nhưng được gán cho thuộc tính color
của thẻ <p>
. Là sai lè lè.
Browser nó sẽ làm như này (#1):
- Đầu tiên, nếu gặp giá trị không hợp lệ, nó sẽ lấy giá trị
inherit
, tức là giá trị được kế thừa từ level cao hơn. Nhưng thẻ<p>
này không có style nào được set ở level cao hơn. - Nên nó sẽ lấy giá trị
initial
mặc định, là màu đen.
Cuối cùng, giá trị trả về của var(--text-color)
trong trường hợp này sẽ là màu đen (có thể nói CSS cũng có type inference ). Nên chốt lại, màu chữ của thẻ <p>
trong trường hợp này sẽ là màu đen.
Not so typed
Let’s talk about Array sorting.
Khác với các ngôn ngữ định kiểu (typed language), Array trong JS có thể chứa nhiều phần tử với nhiều kiểu dữ liệu khác nhau. Vì đặc tính này, các hàm như Array.prototype.sort
buộc phải chuyển từng phần tử về dạng chuỗi (string) khi sort, nên chúng ta sẽ có nhưng pha sort thần sầu như này:
let a = [1, 4, 3, 10, 11];
a.sort()
Expected:
a = [1, 3, 4, 10, 11]
Actual:
a = [1, 10, 11, 3, 4]
Mảng a
ở trên được sort theo thứ tự alphabet, mặc dù input của chúng ta là một mảng chỉ chứa toàn kiểu số.
TypeScript cũng không handle được case này.
let a: Number[] = [1, 4, 11, 3, 10];
a.sort(); // [1, 10, 11, 3, 4]
Cách giải quyết tất nhiên là phải viết custom comparator cho hàm sort:
a.sort((a, b) => a - b);
Nhìn qua thì có vẻ chẳng có gì để bàn cãi, nhưng đây thực sự là một hành động dư thừa không đáng có, khi một thao tác đơn giản như sort một mảng số theo thứ tự tăng dần, mà chúng ta cũng phải viết custom comparator cho nó.
Một cách giải quyết khác “đẹp” hơn, đó là sử dụng Typed Array. Ở đây, chúng ta assume các số trong mảng cần sắp xếp là các giá trị integer 32 bit:
let ta = new Int32Array([1, 4, 11, 3, 10]);
ta.sort(); // [1, 3, 4, 10, 11]
Sau khi xử lý dữ liệu với typed array xong, thì cần phải chuyển nó về lại dạng Array (vì không phải chức năng nào của Array cũng có trong TypedArray, ví dụ, không có push
, pop
, hàm isArray()
cũng sẽ trả về false
,…).
let a = [...ta];
// hoặc
let a = Array.from(ta);
Quick note về Origin trong JavaScript
Một URL thường sẽ có cấu tạo như sau:
<scheme>://<host>:<port>/<path>
ví dụ
http://localhost:45848/hello
https://thefullsnack.com
Một tập hợp của scheme
, host
và port
sẽ định nghĩa thành một origin
. Vậy cho nên khi nói hai nội dung có cùng origin tức là chúng nằm trên cùng scheme + host + port, và tất nhiên nếu một trong 3 yếu tố trên khác nhau thì chúng ta có 2 nội dung không nằm cùng origin với nhau.
Riêng IE, với phong cách nổi loạn thường thấy, sẽ bỏ qua port khi xét origin, nên 2 URL có cùng scheme + host mà khác port thì vẫn tính là same origin.
Ví dụ về 2 URL có cùng origin:
https://something.com/hello
https://something.com/yolo
Ví dụ về các URL không có cùng origin với nhau:
// Khác scheme
http://abc.com/bobo
https://abc.com/koko
// Khác host
https://foo.abc.com
https://bar.abc.com
// Khác port
https://abc.com
https://abc.com:8443
Phân biệt được sự khác nhau về origin có thể giúp bạn hiểu và tìm ra giải pháp dễ dàng hơn khi gặp những vấn đề liên quan đến CORS (cross-origin resource sharing), khi truy xuất localStorage, hay khi tìm hiểu về execution context, event loop,…
Đối với các thao tác liên quan đến network connection trên một trang web (HTTP request, hay load image), việc truy xuất cross-origin cho các thao tác sau đây được cho phép:
- Redirect, link, submit form
- Embedding (như inject content dùng thẻ
<script>
,<link>
,<img>
,<video>
,<audio>
,<object>
,<embed>
,<iframe>
, load font dùng@font-face
,…)
Đối với Cookie, thì khác subdomain vẫn được tính là cùng origin.
Bài viết gốc được đăng tải tại thefullsnack.com
Có thể bạn quan tâm:
- Cách trở thành 1 Kỹ sư Phần mềm thực tập chỉ với 4 tháng tự học
- Roadmap Frontend Developer – “Con đường tắt” để trở thành cao thủ Frontend Developer
- Lộ trình trở thành Frontend Developer
Xem ngay những tin đăng tuyển dụng IT mới nhất trên TopDev
- B BenQ RD Series – Dòng Màn Hình Lập Trình 4k+ Đầu Tiên Trên Thế Giới
- i iOS 18 có gì mới? Có nên cập nhật iOS 18 cho iPhone của bạn?
- G Gamma AI là gì? Cách tạo slide chuyên nghiệp chỉ trong vài phút
- P Power BI là gì? Vì sao doanh nghiệp nên sử dụng PBI?
- K KICC HCMC x TOPDEV – Bước đệm nâng tầm sự nghiệp cho nhân tài IT Việt Nam
- T Trello là gì? Cách sử dụng Trello để quản lý công việc
- T TOP 10 SỰ KIỆN CÔNG NGHỆ THƯỜNG NIÊN KHÔNG NÊN BỎ LỠ
- T Tìm hiểu Laptop AI – So sánh Laptop AI với Laptop thường
- M MySQL vs MS SQL Server: Phân biệt hai RDBMS phổ biến nhất
- S SearchGPT là gì? Công cụ tìm kiếm mới có thể đánh bại Google?